Chương trình giáo dục tại Rosemont

Phương pháp giáo dục tại Trường Mầm non Quốc tế Mỹ Rosemont được thiết kế nhằm đan xen các nhân tố của một giáo trình mầm non toàn diện. Các bài học và các hoạt động phải đảm bảo các tiêu chí sau:

Bây giờ chúng ta hãy tìm hiểu sâu thêm về các nhân tố của phương pháp giáo dục tại Rosemont và vai trò của mỗi nhân tố trong chương trình giáo dục mầm non chất lượng cao này.

Học qua chơi

“Chơi” là gì?

Đầu tiên, chúng ta phải hiểu “chơi” là gì. Đối với trẻ em, chơi không có nghĩa là tham gia các trò chơi với người lớn, nhất là khi những trò chơi đó đã được thiết kế để giáo dục. Những hoạt động đó có thể làm cho việc học trở nên thú vị hơn, nhưng nó không phải là trò chơi.

Đối với một hoạt động được coi là chơi, nó thường bao gồm các yếu tố sau:

Trẻ em chơi
  1. Nó được tự chọn. Điều này có nghĩa là bọn trẻ chọn chơi gì, chơi như thế nào, và chúng muốn chơi trong bao lâu. Nếu những lựa chọn đó được thực hiện cho đứa trẻ, nó không còn được coi là trò chơi nữa.
  2. Nó phải thú vị cho đứa trẻ. Tất nhiên, có thể có một số thất vọng hoặc bất đồng, đặc biệt là khi chơi với những đứa trẻ khác, nhưng khía cạnh cảm xúc tổng thể là thú vị đối với đứa trẻ. Và nếu không còn thú vị nữa, họ vẫn có quyền dừng lại.
  3. Hoạt động không có các quy tắc bên ngoài áp đặt lên nó. Các con nên có thời gian tìm tòi và khám phá trong quá trình chơi. Bạn sẽ nhận thấy rằng bọn trẻ sẽ tạo ra các quy tắc của riêng mình khi chơi cùng nhau và những quy tắc đó sẽ thay đổi khi trò chơi tiến triển. Đó là một phần quan trọng của quá trình học tập.
  4. Hoạt động được định hướng theo quy trình. Điều này có nghĩa là đứa trẻ đang thực hiện hoạt động vì niềm vui khi làm nó. Khi trưởng thành, nếu điều gì đó không có kết quả hoặc mục tiêu, chúng ta thường cảm thấy rằng điều đó thật lãng phí thời gian. Một điều chúng ta thường quên là không phải lúc nào đích đến cũng quan trọng mà là hành trình. Chính trong khi chúng ta đang trong cuộc hành trình thì sự phát triển thực sự mới xảy ra. Suy nghĩ đó vẫn rất tự nhiên đối với trẻ em và quan trọng đối với sự phát triển của trẻ.
  5. Nhìn chung có một khía cạnh tưởng tượng vào hoạt động này. Trẻ sử dụng trí tưởng tượng của mình và nhận ra rằng chúng đang bước ra khỏi thế giới thực.

Học qua chơi là gì?

Dựa trên định nghĩa vui chơi ở trên, học qua chơi có nghĩa là chúng ta tạo ra một môi trường mà trẻ em có thể chơi và khám phá mà không cần có những động lực bên ngoài áp đặt lên chúng.

Có nghĩa là ít nhất một phần trong ngày, bọn trẻ được phép tự do lựa chọn những hoạt động chúng muốn tham gia, và chúng muốn thực hiện nó cùng với ai. Chúng tôi làm điều này bằng cách tạo ra các trung tâm học tập trong lớp học. Ví dụ, có thể có một trung tâm xây dựng với các khối, một trung tâm nghệ thuật với các đồ dùng vẽ, một trung tâm toán học với các câu đố và trò chơi logic, v.v. Sau đó, trẻ em có thể tự do di chuyển xung quanh các trung tâm và tìm các hoạt động mà chúng quan tâm, hoặc sáng tạo trò chơi mới bằng cách sử dụng các vật liệu được cung cấp theo những cách bất ngờ.

Điều này không có nghĩa là giáo viên không làm gì cả. Các giáo viên ở đó để quan sát, hỗ trợ khi được yêu cầu, đặt câu hỏi và duy trì một môi trường an toàn. Nhưng trong thời gian này, các giáo viên không nói cho bọn trẻ biết phải làm gì hoặc làm như thế nào. Khi trẻ em đang chơi và khám phá, không có cách nào đúng hay sai để làm điều gì đó, đó là những gì chúng đang tự khám phá. Chúng ta có thể nghĩ rằng bằng cách cho họ biết câu trả lời hoặc chỉ cho họ cách làm điều gì đó mà chúng tôi đang giúp họ học nhanh hơn, nhưng những gì chúng ta thực sự đang làm đang cướp đi kinh nghiệm học hỏi của bản thân và những người có tư duy sáng tạo.

Ưu điểm của việc học qua chơi là gì?

Tầm quan trọng của vui chơi đối với cuộc sống của trẻ nhỏ không thể bị nhấn mạnh quá mức.

Vui chơi quan trọng đối với sự phát triển tối ưu của trẻ em đến mức nó đã được Ủy ban Nhân quyền Cấp cao của Liên hợp quốc công nhận là quyền của mọi trẻ em.

Những lợi thế của học tập dựa trên trò chơi bao gồm:

  • Mức độ tương tác cao. Kể từ khi các em lựa chọn hoạt động, các em có động lực và hứng thú.
  • Phát triển các kỹ năng xã hội. Họ học cách đối phó với những người khác và làm việc cùng nhau.
  • Khả năng tự điều chỉnh và kiểm soát xung động tốt hơn. Điều này dẫn đến ít vấn đề về hành vi hơn trong những năm sau đó.
  • Cải thiện sự phát triển nhận thức.

Một điều quan trọng cần nhớ là ảnh hưởng lâu dài mà chúng ta đang tìm kiếm. Mặc dù đúng là trẻ em trong các chương trình học tập dựa trên trò chơi có thể không đạt điểm cao trong bài kiểm tra tiêu chuẩn ở trường mầm non và mẫu giáo, nhưng sau lớp một, chúng ít nhất bằng các bạn cùng lứa tuổi và thường học giỏi hơn, do sự phát triển nhận thức nhanh hơn. Và đến khi chúng lên lớp 8, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng những đứa trẻ chơi nhiều hơn khi còn nhỏ có lợi thế đáng kể so với các bạn cùng lớp trong nhiều lĩnh vực.

Nhiều nghiên cứu trong nhiều thập kỷ đã chứng minh rằng vui chơi đóng góp vào tất cả các khía cạnh phát triển của trẻ em. Những nghiên cứu này cũng đã chỉ ra rằng việc tập trung vào học tập trong những năm mầm non và mẫu giáo có ảnh hưởng tiêu cực như bị căng thẳng, thiếu sáng tạo và kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng xã hội kém và gia tăng hành vi

Thuyết trí thông minh đa diện

Khái niệm Trí thông minh đa diện là khái niệm mới nhất mà các giáo viên thường cân nhắc đưa vào khi thiết kế các bài giảng nhằm đáp ứng sự khác biện của từng cá nhân. Thuyết trí thông minh đa diện là nghiên cứu của Howard Gardner, được giới thiệu lần đầu năm 1983 trong cuốn sách Frames of Mind.

Quan niệm cũ cho rằng Trí thông minh được đo lường bằng điểm số của những bài IQ test, cụ thể là Thang đo mức độ thông minh Standford Binet, cho đến tận khi Gardner giới thiệu sự tồn tại của 8 dạng năng lực. Vấn đề của các dạng bài IQ test truyền thống là chúng chỉ có thể đo lường được khả năng ngôn ngữ và khả năng toán học. Ông Gardner phản biện rằng không chỉ có ngôn ngữ và toán học mà còn có nhiều dạng trí thông minh khác (năng lực). Ví như các nhạc công thể hiện khả năng cảm nhận, phân hóa, chuyển thể và thể hiện các thể loại âm nhạc khác nhau. Các diễn viên, vũ công và vận động viên có khả năng sử dụng hình thể để thể hiện ý tưởng và cảm xúc. Các nghệ nhân và các nhà điêu khắc có khả năng sử dụng đôi bàn tay tài hoa của mình để sáng tạo và chuyển thể.

Ông Gardner không chỉ mở rộng số lượng các dạng năng lực cá nhân mà ông còn định nghĩa các dạng năng lực đó. Ông cho rằng trí thông minh có liên quan nhiều hơn đến khả năng giải quyết vấn đề và đưa ra các quyết định hợp lý trong bối cảnh tự nhiên và đa dạng, hơn là việc thực hiện các bài test đơn lẻ.

Ông Gardner tin tưởng rằng trí thông minh không phải là việc thể hiện kết quả của bài test. Thực tế là ông đã sử dụng hệ thống 8 tiêu chí nghiêm ngặt mà thông qua đó tất cả các kỹ năng, tài năng tiềm ẩn, các năng lực tâm thần cần đạt được trước khi quyết định xem chúng có phải là các năng lực thực sự của con người. Vì vậy cho đến tận bây giờ, chỉ có 8 dạng năng lực được ghi nhận.

Ông Gardner cũng tin rằng mỗi người đều sở hữu đầy đủ các dạng năng lực này ở các cấp độ khác nhau, có dạng năng lực nổi bật hơn các dạng năng lực khác. Và các cấp độ này khác nhau trong mỗi người nói một cách khác mỗi người có một bộ hồ sơ năng lực khác nhau. Mỗi dạng năng lực đều có thể được cải thiện bằng cách trau dồi và sẽ tiếp tục được cải thiện trong suốt hành trình cuộc đời của một con người.

8 dạng năng lực:

Năng lực ngôn ngữ

Năng lực ngôn ngữ

Là khả năng sử dụng ngôn từ một cách hiệu quả: Có thể là khả năng sử dụng ngôn ngữ nói (người dẫn chuyện, người diễn thuyết, hay chính trị gia) hay khả năng viết (nhà thơ, nhà viết kịch, biên tập viên hay nhà báo…). Các hoạt động giảng dạy ngày nay đều hướng đến kỳ vọng rằng trẻ em hấp thụ thông tin thông qua nghe, đọc, nói, viết.

Năng lực Toán học – Logic

Là khả năng sử dụng con số một cách hiệu quả (nhà toán học, kế toán thuế, nhà thống kê) và khả năng lập luận tốt (nhà khoa học, lập trình viên, nhà lý luận học). Dạng năng lực này tuân theo các thực hành giảng dạy truyền thống sử dụng các con số, các nguyên lý khoa học cũng như quan sát và thí nghiệm. Trẻ em có năng lực toán học đáp ứng tốt các câu hỏi “điều gì xảy ra nếu…)

Năng lực toán học
Năng lực không gian

Năng lực không gian

Là khả năng nhận thức thế giới không gian – trực quan một cách chuẩn xác (thợ săn, hướng đạo sinh, hướng dẫn viên) và khả năng thể hiện sự chuyển thể dựa trên các nhận thức về không gian – hình ảnh (thiết kế nội thất, kiến trúc sư, nghệ sĩ, hay nhà phát minh). Dạng năng lực này đòi hỏi sự nhạy cảm với màu sắc, đường nét, dạng hình khối, không gian và mối quan hệ tồn tại giữa các yếu tố này. Nó bao gồm khả năng hình dung và thể hiện bằng đồ họa những ý tưởng không gian trực quan này.

Năng lực vận động

Là khả năng sử dụng toàn bộ cơ thể để diễn tả ý tưởng và cảm giác một cách khéo léo (diễn viên, vận động viên hoặc vũ công) và khả năng sử dụng đôi bàn tay tài hoa để sáng tạo và chuyển thể (nghệ nhân, nhà điêu khắc, thợ cơ khí, bác sĩ phẫu thuật). dạng năng lực này liên quan đến các cử động cơ và sự khéo léo của cơ thể bao gồm phần vỏ não điều khiển hoạt động của cơ thể.

Năng lực vận động
Năng lực âm nhạc

Năng lực âm nhạc

Là khả năng nhận thức các hình thức âm nhạc (người thưởng thức), khả năng phân biệt các hình thức âm nhạc (nhà phê bình âm nhạc), khả năng chuyển thể (nhà soạn nhạc), khả năng thể hiện (nhạc công, ca sĩ biểu diễn). Học viên âm nhạc có khả năng phận biệt và ghi nhớ giai điệu. Dạng năng lực này dựa trên khả năng phát hiện mẫu âm bao gồm các âm thanh khác nhau từ môi trường và sự nhạy bén với nhịp điệu và tiết tấu.

Năng lực thiên nhiên

Là khả năng phân biệt các sinh vật (nhà thực vật học, nhà sinh học, bác sĩ thú y, kiểm lâm) cũng như sự nhạy bén với các đặc thù khác của thể giới tự nhiên (nhà địa chất học, nhà khí tượng học, nhà khảo cổ học). Sự tinh thông trong việc phát hiện và phân loại các tạo tác văn hóa như ô tô hay giày thể thao cũng phụ thuộc vào dạng năng lực tự nhiên này.

Năng lực thiên nhiên
Năng lực giao tiếp

Năng lực giao tiếp

Là khả năng nhận thức và phân biệt trạng thái, ý định, động cơ, cảm giác của người khác (giáo viên, chính trị gia, diễn viên, nhà hảo tâm). Là khả năng sở hữu các thông tin dạng ngôn ngữ hoặc phi ngôn ngữ thông qua sự thể hiện của tất cả các loại hình vũ đạo, cử chỉ bàn tay, chuyển đông cơ thể và âm nhạc (vũ công, kịch câm, diễn viên, nhạc sĩ). Dạng năng lực này hoạt động chủ yếu thông qua mối quan hệ và giao tiếp giữa các cá nhân. Những người thuộc dạng năng lực này thường học tốt nhất bằng cách làm việc với người khác và thường rất hứng thú với các cuộc thảo luận và tranh luận sôi nổi.

Năng lực nội tâm

Là khả năng hành động mang tính thích nghi cao. Dạng năng lực này bao gồm khả năng tự nhận thức về thế mạnh hay sự hạn chế củabản thân một cách chuẩn xác; sự ý thức được trạng thái nội tại, ý muốn, động lực, tính cách và ước muốn và khả năng tự giác, tự ý thức, tự tôn (nhà tâm lí học, triết gia, bác sĩ tâm thần…) Dạng năng lực này rất riêng biệt và sử dụng các dạng năng lực khác để tự biểu lộ.

Năng lực nội tâm

Thực hiện

Thuyết Trí thông minh đa diện của Howard Gardner được công nhận rộng rãi ở hầu hết các môi trường giáo dục. Trong thập kỷ vừa qua, nó đã trở thành cốt lõi để phát triển giáo trình học. Việc lên giáo trình giảng dạy giải quyết được các dạng năng lực này đã trở nên quen thuộc với các giáo viên. Các hoạt động giảng dạy chính là những trải nghiệm được các giáo viên thiết kế và cung cấp cho trẻ trong một môi trường thích hợp cho sự phát triển.

Các góc hoạt động (trung tâm học tập) cung cấp một hình thức hoàn hảo; giúp cho giáo viên chuẩn bị và thực hiện các hoạt động đáp ứng được đầy đủ mọi dạng năng lực. Các góc hoạt động này cho phép học sinh tham gia vào các trải nghiệm cụ thể, năng động, mang tính ứng dụng cao và không ngừng tương tác với các thiết bị, tài liệu và những con người thích hợp trong môi trường giáo dục. Học sinh có cơ hội được tiếp cận với việc học bằng dạng năng lực thế mạnh của mình cũng như có cơ hội thực hành các dạng năng lực khác. Góc hoạt động phát huy và kích thích trí thông minh của trẻ. Phương pháp Rosemont cung cấp sự hướng dẫn cho các giáo viên thực hiện các góc hoạt động mỗi ngày để hỗ trợ phát triển đa dạng năng lực này.

Miền phát triển

Hướng dẫn về đứa trẻ toàn diện hỗ trợ khái niệm rằng các miền, các vùng phát triển của trẻ em diễn ra đồng thời và mỗi vùng phát triển này có tầm quan trọng như nhau đối với một đứa trẻ. Các vùng phát triển này không chỉ đóng vai trò quan trọng như nhau mà cũng còn đan xem vào nhau. Chúng ta tin rằng cảm xúc xã hội của một đứa trẻ là nguồn nhiên liệu cho trí tuệ. Nghiên cứu về sự phát triển bộ não trong giai đoạn sớm chỉ ra rằng sự phát triển cảm xúc xã hội và sự phát triển nhận thức luôn song hành với nhau. Một đứa trẻ không thể học tốt được nếu có vấn đề về trạng thái cảm xúc xã hội.

Sự phát triển của trẻ được chia làm bốn vùng phát triển:

  1. Phát triển về nhận thức tập trung vào tâm trí (trí tuệ).
  2. Phát triển thể chất là sự phát triển của cơ thể và các bộ phận trên cơ thể.
  3. Phát triển vầ mặt xã hội là sự phát triển các kỹ năng tương tác với người khác.
  4. Phát triển về cảm xúc là sự phát triển sự tự tôn cũng như sự tự chủ.

Các bài học hàng ngày của phương pháp Rosemont chú ý đến toàn bộ bốn vùng phát triển này.

Các lĩnh vực chủ đề

Học sinh mầm non cũng học các môn toán, khoa học, xã hội học, ngôn ngữ (đọc), âm nhạc và mỹ thuật giống như trẻ ở bậc tiểu học. Các môn học được dạy và học phối kết hợp thông qua từng hoạt động. Ví dụ, khi ghép hình với những khối hình khác nhau, trẻ học được các khái niệm toán học như đếm – biết số lượng khối hình cần có để lắp ghép một vật như ngôi nhà hay chiếc xe; và hình học như biết được hình dạng của từng khối hình và kết quả khi lắp ghép các khối hình khác nhau; trẻ học khoa học khi trẻ khám phá trọng lực và sự cân bằng; trẻ học kỹ năng xã hội và ngôn ngữ khi trẻ hợp tác, giao tiếp với nhau để cùng dựng một tòa tháp, lâu đài hay pháo đài. Việc dạy và học các kỹ năng và các khái niệm luôn xong hành cùng nhau. Một giáo viên giỏi ý thức một cách đầy đủ về những gì được học và phương pháp dạy học trong suốt quá trình diễn ra các hoạt động thường nhật. Phương pháp giáo dục của Rosemont là sự phát huy toàn diện sự phối hợp này.

Dạy và học theo sở thích của trẻ

Nghiên cứu chỉ ra rằng tất cả chúng ta không chỉ riêng trẻ nhỏ đều có xu hướng tiếp nhận những thông tin thuộc sở thích của chúng ta (Sousa, 1995). Phiêu theo sở thích của trẻ giúp trẻ liên hệ những gì trẻ biết với kiến thức được học và giúp trẻ áp dụng kiến thức mới trong một ngữ cảnh phù hợp.